Bài viết này tập trung vào vấn đề quản lý chất thải rắn tại Việt Nam. Với tổng lượng chất thải rắn được sinh ra khoảng 16 triệu tấn mỗi năm, việc quản lý và xử lý chất thải đúng cách là một vấn đề nóng. Bài viết sẽ trình bày về tình trạng quản lý chất thải rắn ở các địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Quảng Ninh và tỉnh Hải Dương, cùng những giải pháp để cải thiện tình hình này.
Tình trạng quản lý chất thải rắn tại Việt Nam
Theo thống kê từ Bộ Xây dựng, tổng lượng chất thải rắn được sinh ra tại Việt Nam khoảng 16 triệu tấn mỗi năm, với tốc độ tăng hàng năm ước tính là 10%. Tuy nhiên, việc quản lý chất thải rắn vẫn còn nhiều thách thức. Khoảng 70% chất thải này được xử lý thông qua việc chôn lấp, gây nguy cơ ô nhiễm môi trường. Do đó, việc quản lý và xử lý chất thải tại các địa phương luôn là một chủ đề nóng.
Ở Thành phố Hồ Chí Minh, tình trạng sinh chất thải rắn trong những năm gần đây đã trở nên phức tạp, với lượng chất thải đô thị ngày càng tăng. Trong 6 tháng đầu năm 2019, lượng chất thải rắn sinh hoạt trung bình thu gom và xử lý là 9.583 tấn mỗi ngày. Việc phân loại và xử lý chất thải đúng cách là rất quan trọng để ngăn ngừa ô nhiễm môi trường và duy trì vẻ đẹp của thành phố.
Chất thải nguy hại tại Thành phố Hồ Chí Minh
Lượng chất thải nguy hại được ước tính tại Thành phố Hồ Chí Minh là khoảng 350-400 tấn mỗi ngày, trong đó chất thải nguy hại y tế là khoảng 21,4 tấn mỗi ngày. Chất thải nguy hại chứa các thành phần ăn mòn, cháy, phản ứng và độc hại, trong đó thành phần ăn mòn, cháy và độc hại là cao nhất. Hiện nay, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt thu gom và xử lý bằng công nghệ đốt cháy, phân hủy và tái chế chiếm 31%, trong khi việc chôn lấp chiếm 69%.
Quản lý chất thải rắn tại tỉnh Quảng Ninh
Tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt được sinh ra tại tỉnh Quảng Ninh là khoảng 1.397 tấn mỗi ngày, trong đó có 1.245 tấn được thu gom và xử lý, đạt 93,5%. Chất thải sinh hoạt chủ yếu được xử lý thông qua việc chôn lấp và đốt cháy. Cụ thể, có 5 địa phương sử dụng chôn lấp, 4 địa phương sử dụng cả đốt cháy và chôn lấp, và 5 địa phương chỉ sử dụng đốt cháy.
Các khu vực chôn lấp hiện có trong tỉnh được triển khai theo kế hoạch, và các khu vực xử lý chất thải mới được xây dựng để đáp ứng tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, một số khu vực chôn lấp ở những vùng xa, kinh tế khó khăn không tuân thủ đầy đủ quy định vệ sinh môi trường do hạn chế nguồn lực tài chính để đầu tư.
Quản lý chất thải rắn tại tỉnh Hải Dương
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hải Dương, ông Nguyễn Dương Thái, cho biết tỉnh đã phê duyệt "Kế hoạch tổng thể quản lý chất thải rắn tỉnh Hải Dương đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030". Theo kế hoạch, tỉnh đã xác định 6 khu vực xử lý chất thải rắn tập trung ở cấp khu vực và huyện. Tuy nhiên, chỉ có 2 trong số 6 khu vực xử lý đã được triển khai cho đến nay.
Tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt tại tỉnh hiện nay khoảng 1.072 tấn mỗi ngày, trong đó khoảng 419 tấn mỗi ngày ở khu vực đô thị và 653 tấn mỗi ngày ở khu vực nông thôn. Việc thu gom và xử lý chất thải ở khu vực đô thị được thực hiện bởi 42 đội thu gom, 7 hợp tác xã và 4 công ty, với tần suất thu gom trung bình là một lần mỗi ngày. Tỷ lệ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải ở thành phố Hải Dương là khoảng 95%, trong khi ở các khu vực đô thị khác, tỷ lệ này là khoảng 85%. Tỷ lệ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải ở khu vực nông thôn là khoảng 79%.
Giải pháp cải thiện quản lý chất thải rắn
Theo các chuyên gia môi trường, quản lý và xử lý chất thải rắn là vấn đề cấp bách ở nhiều địa phương do quá trình đô thị hóa nhanh chóng dẫn đến sự tăng đáng kể về lượng chất thải sinh ra. Tuy nhiên, quản lý và xử lý chất thải vẫn còn nhiều hạn chế, như trách nhiệm chồng chéo và lỗ hổng trong quản lý chất thải, đầu tư tài chính không đủ cho quản lý chất thải nguy hại, không tuân thủ quy định về phân loại, thu gom và xử lý chất thải, và tính toán chi phí không chính xác cho việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải.
Để giải quyết những vấn đề này, các địa phương cần tự chủ thành lập cơ chế và chính sách cụ thể phù hợp với tình hình thực tế của mình, với sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị trong việc bảo vệ môi trường. Cũng cần phân bổ nguồn lực cho bảo vệ môi trường để giải quyết các vấn đề môi trường cấp bách và cần thiết ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến chất lượng cuộc sống của người dân, như việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải, xử lý nước thải, cải thiện cảnh quan đô thị và các dự án bảo vệ môi trường. Ngoài ra, cần khuyến khích đối tác công tư và thu hút nhà đầu tư sử dụng công nghệ tiên tiến và thân thiện với môi trường. Cũng quan trọng là khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ sạch và thân thiện với môi trường, cũng như phát triển công nghệ xử lý và tái chế chất thải.